Abstract: | Nhiều thập kỷ, trong thời kỳ kinh tế tập trung ở Việt Nam, Nhà nước đứng ra tổ chức di dân. Với sự chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường từ cuối thập niên 80, làn sóng di dân ở Việt Nam trở nên tự phát hơn: người di dân không còn tùy thuộc vào chế độ trợ cấp hay tem phiếu về lương thực, thực phẩm và những nhu yếu phẩm khác. Dòng di dân đã tăng mạnh trong khoảng 15 năm qua, trong bối cảnh là sự bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn cũng như giữa các vùng đã tãng đáng kể dưới tác động của kinh tế thị trường (Hardy 2003 và Lương Văn Hy 2003). Ngay cả khi mà những người di dân ở tại một địa phương dưới 6 tháng vẫn được xem là còn ở lại quê cũ như trong cuộc tổng điều tra dân số ở Việt Nam, đưa đến việc không tính được đầy đủ làn sóng di dân, thì theo sô' liệu tổng điều tra dân số vào năm 1999, 4,5 triệu người Việt Nam trên 5 tuổi (6,5% dân số ở độ tuổi này) đã di chuyển ra khỏi xã hay phường mà họ đã cư ngụ 5 năm trước. Trong con số 4,5 triệu người di dân này, thì 2,1 triệu (3% dân số) đã di dân từ tỉnh này sang tỉnh khác, so với con số 1,5 triệu tính được trong giai đoạn 1984-89. Làn sóng di dân trong thời kỳ 1994-1999 đổ về m iền Đông Nam Bộ nhiều nhất. Đây là nơi tiếp nhận 868.338 người trong tổng số 2,1 triệu người đã di dân tương đối lâu dài từ tỉnh này sang tỉnh khác trong thời kỳ 1994-1999 (Việt Nam - Tổng cục thống kê [TCTK] 2001: 173-174), so sánh với Đặng Nguyên Anh và những người khác. 2001: chương. 2). Làn sóng di dân về miền Đ ông Nam Bộ trong thời kỳ 1994- 1999 đã mạnh hơn nhiều so với dòng 398.522 người di dân liên tỉnh trên 5 tuổi về miền Đông Nam Bộ trong thời kỳ 1984-1989 (Việt Nam-Ban điều hành tổng điều tra dân số trung ương 1991: 127)(1). V iệc dòng di dân tăng mạnh tương ứng với sự gia tăng bất bình đẳng giữa đô thị và nông thôn cũng như giữa các vùng. |